Skip to main content

Edson Braafheid – Wikipedia tiếng Việt


Edson Braafheid

Edson-braafheid.jpg
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ
Edson René Braafheid[1]
Ngày sinh
8 tháng 4, 1983 (35 tuổi)
Nơi sinh
Paramaribo, Suriname
Chiều cao
1,76 m (5 ft 9 in)
Vị trí
Hậu vệ
Thông tin về CLB

CLB hiện nay


Lazio
Số áo
5
CLB trẻ

JOS Amsterdam

Amstelland

Abcoude
0000–2003
Utrecht
CLB chuyên nghiệp*
Năm
Đội

ST

(BT)
2003–2007
Utrecht

81

(2)
2007–2009
Twente

76

(1)
2009–2011
Bayern Munich

12

(0)
2010
→ Celtic (mượn)

10

(0)
2011–2014
1899 Hoffenheim

31

(1)
2012–2013
→ Twente (mượn)

28

(1)
2014–
Lazio

16

(0)
Đội tuyển quốc gia
2004–2006
U21 Hà Lan

15

(0)
2009–2011
Hà Lan

10

(0)

  • Chỉ tính số trận và số bàn thắng ghi được ở giải vô địch quốc gia và cập nhật vào 3 tháng 6 năm 2015.

† Số trận khoác áo (số bàn thắng).


‡ Thống kê về thành tích tại ĐTQG được cập nhật vào 30 tháng 11 năm 2011

Edson René Braafheid (sinh ngày 8 tháng 4 năm 1983 ở Paramaribo) là một cầu thủ người Hà Lan nhưng sinh ở Suriname hiện là hậu vệ của câu lạc bộ Lazio ở Serie A.





Utrecht[sửa | sửa mã nguồn]


Braafheid bắt đầu sự nghiệp cầu thủ trong màu áo FC Utrecht vào năm 2003 và có 81 lần ra sân cho đội bóng.


FC Twente[sửa | sửa mã nguồn]


Vào ngày 10 tháng 2 năm 2007, Braafheid chơi trận đầu tiên ở Eredivisie cho FC Twente trong trận gặp Feyenoord Rotterdam. Hợp đồng lúc đó của anh với đội bóng có thời hạn tới năm 2010.

Braafheid tới Twente the dạng chuyển nhượng tự do sau khi hợp đồng của anh với Utrecht hết hạn; anh là một hậu vệ trái tài năng, song Braafheid lại gây ấn tượng với các fan và đồng nghiệp khi chơi cho Twente nhờ sức khoẻ, do vậy anh chơi ở vị trí trung vệ thay vì vị trí trước đây của anh. Anh chiếm chỗ của trung vệ tài năng Ramon Zomer trong đội hình. Cựu huấn luyện viên Twente Fred Rutten nhờ vào đó đã chuyển Braafheid từ một hậu vệ cánh tài năng thành một cầu thủ gây ấn tượng ở vị trí trung vệ, mặc dù anh có chiều cao hạn chế.


Bayern Munich[sửa | sửa mã nguồn]


Braafheid gia nhập Bayern Munich ở mùa giải 2009-10 sau khi đội bóng Đức và Twente chấp nhận mức phí 2,5 triệu euro vào ngày 11 tháng 6 năm 2009.Tuy nhiên, anh không chiếm được vị trí chắc chắn trong đội hình ở giai đoạn đầu mùa giải, do vậy anh mong muốn có cơ hội được ra đi để có vị trí trong đội hình đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan dự World Cup 2010.


Celtic[sửa | sửa mã nguồn]


Braafheid được đội bóng Scotland Celtic ký hợp đồng theo dạng cho mượn ở mùa giải 2009-10 vào ngày 1 tháng 2.

Braafheid có trận ra mắt trong màu áo Celtic vào ngày 7 tháng 1 năm 2010 trong chiến thắng 4-2 trước Dunfermline Athletic ở Cúp quốc gia Scotland. Anh không thể tạo ấn tượng, và chơi trong nhiều trận hoà và thua trong loạt những trận đấu bị chỉ trích nặng nề của Celtic. Anh cuối cùng bị loại ra khỏi đội hình chính sau khi Tony Mowbray bị sa thải vào ngày 25 tháng 3 năm 2010.



Braafheid cùng các fan Hà Lan.

Vào năm 2006, Braafheid là thành viên đội Hà Lan vô địch giải U21 châu Âu 2006 ở Bồ Đào Nha.

Vào giai đoạn đầu năm 2008, Hugo Borst đã điền tên Braafheid là một hậu vệ thực sự, và cho biết anh nên được triệu tập vào đội hình đội tuyển ở Euro 2008 dưới triều đại Marco van Basten. Các fan Hà Lan đã chỉ trích nặng nề hàng thủ sau khi Jaap Stam, Frank de Boer, và nhiều hậu vệ xuất sắc khác nói lời từ biệt đội tuyển. Thậm chí mặc dù hàng thủ sau đó chỉ để thủng lưới rất ít bàn, hàng thủ vẫn bị coi là rất mỏng. Vào ngày 11 tháng 2 năm 2009, Braafheid có trận ra mắt cho đội tuyển Hà Lan trong trận gặp đội tuyển bóng đá quốc gia Tunisia.


Thế vận hội mùa hè 2008[sửa | sửa mã nguồn]


Vào mùa hè năm 2008, Braafheid được triệu tập vào đội hình đội Olympic Hà Lan tới Bắc King, cùng với đồng đội ở Twente là Rob Wielaert, là một trong ba cầu thủ quá tuổi được phép tham dự. Tuy nhiên với việc Twente phải tham dự vòng loại cúp C1 sau khi đánh bại Ajax Amsterdam, Braafheid và Wielaert không được phép tham dự, khi các trận đấu thuộc cúp C1 của họ diễn ra sớm.


World Cup 2010[sửa | sửa mã nguồn]


Braafheid được triệu tập vào đội hình đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan tham dự World Cup 2010 ở Nam Phi. Vào ngày 27 tháng 5 năm 2010, huấn luyện viên Hà Lan Bert van Marwijk cho biết cầu thủ này sẽ được triệu tập vào danh sách 23 cầu thủ tới Nam Phi. Braffheid được được vào sân thay Giovanni van Bronckhorst ở trận chung kết World Cup ngay trước khi hiệp phụ thứ nhất kết thúc. Ở giai đoạn cuối hiệp phụ thứ hai anh nhận một cú sút mạnh trúng phía sau đầu anh. May rằng trái bóng bay trúng vào tay phải của thủ thành Hà Lan Maarten Stekelenburg. Đội tuyển Hà Lan sau đó thua trận, và đó là lần thứ ba họ về nhì ở World Cup.



Số liệu thống kê chính xác tới 13 tháng 6 năm 2013




Comments

Popular posts from this blog

Cung điện Fontainebleau - Wikipedia

Các Lâu đài Fontainebleau ( ; [19659002] Phát âm tiếng Pháp: [19659003]) hoặc Château de Fontainebleau nằm 55 km (34 dặm) về phía đông nam của trung tâm Paris, thuộc xã Fontainebleau, là một trong những lâu đài hoàng gia Pháp lớn nhất. Lâu đài thời trung cổ và cung điện tiếp theo từng là nơi ở của các vị vua Pháp từ Louis VII đến Napoleon III. Francis I và Napoleon là những vị vua có ảnh hưởng lớn nhất đến Cung điện như ngày nay. [2] . Nó hiện là một bảo tàng quốc gia và là Di sản Thế giới của UNESCO. Lịch sử [ chỉnh sửa ] Cung điện thời trung cổ (thế kỷ 12) [ chỉnh sửa ] Sân hình bầu dục, với thời trung cổ donjon một di tích của lâu đài nguyên thủy nơi đặt các căn hộ của nhà vua, ở trung tâm. Phòng trưng bày của Francis I, kết nối các căn hộ của nhà vua với nhà nguyện, được trang trí từ năm 1533 đến 1539. Nó đã giới thiệu thời Phục hưng Ý phong cách sang Pháp. Kỷ lục sớm nhất về một tòa lâu đài kiên cố tại Fontaineau có từ năm 1137. [3] Nó trở thành nơi cư...

Kane (đô vật) – Wikipedia tiếng Việt

Glenn Thomas Jacobs (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1967) là một đô vật chuyên nghiệp, người bán bảo hiểm và diễn viên người Mỹ. [9] Ông làm việc cho WWE, và thường được biết đến với tên trên võ đài Kane . Jacobs bắt đầu sự nghiệp đấu vật chuyên nghiệp của ông ở independent circuit năm 1992. Ông đấu vật quảng cáo cho Smoky Mountain Wrestling (SMW) và United States Wrestling Association (USWA) trước khi gia nhập World Wrestling Federation (bây giờ là WWE) vào 1995. Jacobs vào vai nhiều nhân vật khác nhau cho tới năm 1997, khi ông được gắn với vai Kane, quái vật/hoặc người em trai khổng lồ của The Undertaker, người mà Jacobs sẽ có mối thù hoặc hợp thành nhóm The Brothers of Destruction. Sau màn ra mắt, Kane là một thành phần quan trọng của Attitude Era của công ty vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, đánh bại Stone Cold Steve Austin [10] cho danh hiệu WWF Championship trong sự kiện chính pay-per-view (PPV) đầu tiên của ông tại King of the Ring 1998. Ông tiếp tục thi đấu tại các tr...

Triều Konbaung – Wikipedia tiếng Việt

Triều Konbaung (tiếng Myanma: ကုန်းဘောင်ခေတ), hoặc triều Cống Bảng theo tiếng Hán, là vương triều cuối cùng ở Miến Điện, thành lập năm 1752 và diệt vong năm 1885. Dưới sự cai trị của triều Konbaung, Miến Điện đã thống nhất và trở thành một đế quốc hùng mạnh ở Đông Nam Á, xâm chiếm nhiều nước láng giềng và đánh bại những cuộc xâm lược của Đế quốc Mãn Thanh thời Hoàng đế Càn Long. Tuy nhiên, việc hướng nội và chậm canh tân đất nước của triều Konbaung đã khiến Miến Điện bị thực dân Anh thôn tính. Nhân việc người Môn tấn công Taungoo, Alaungpaya một tù trưởng người Miến ở làng Moksobo (nay là Shwebo) ngay cạnh Innwa (thủ phủ bang Mandalay) ở Thượng Miến đã phát triển thế lực của mình. Alaungpaya đã liên tục đánh bại người Môn và đồng thời thu hút được sự liên minh của nhiều lực lượng người Miến. Mặc dù sau đó hậu duệ nhà Taungu vẫn tuyên bố vương quyền, nhưng Alaungpaya không phục mà tự lập nên Triều Konbaung, lấy chính quê mình làm kinh đô. Năm 1757, Alaungpaya thống nhất được Miến Điện....